Thứ ba, 10 Tháng 2 2015 03:26

BIA THỦY MÔN ĐÌNH - NIỀM TỰ HÀO CỦA DI SẢN VĂN HÓA XỨ LẠNG

 

      Bia Thủy Môn Đình là một trong số những di vật lịch sử văn hóa có giá trị đặc biệt hiện đang lưu giữ, trưng bày tại Bảo tàng tỉnh Lạng Sơn.

Thuy mon dinh

     Bia do ông Nguyễn Đình Lộc - một viên quan triều Lê hưng công tạo dựng tại đình Thủy Môn (xứ Đồng Đăng, châu Văn Uyên) vào năm Cảnh Trị thứ 8 (1670), đời vua Lê Huyền Tông. Dòng họ Nguyễn Đình của ông vốn là dòng họ danh giá - một trong "thất tộc thổ ty" (bảy dòng họ thổ ty) nổi tiếng của Xứ Lạng. Ông Nguyễn Đình Lộc lúc đó mới ngoài 20 tuổi đã được phong chức Đô Tổng Binh sứ Ty, Bắc quân Đô đốc phủ, hữu Đô đốc tướng, Thao quận công - làm nhiệm vụ trông coi, trấn giữ vùng biên giới ở Lạng Sơn và tiếp đón các sứ thần của hai nước Việt Nam, Trung Quốc. Đây là một trọng trách hết sức lớn lao đối với một người trẻ tuổi. Đình Thủy Môn chính là nơi là việc của các phiên thần họ Nguyễn.

     Khi làm việc ở đây, ông nhận thấy nhân dân bản xứ chưa thực sự đoàn kết, còn tranh giành kìm hãm nhau, nha lại tự tung tự tác, mỗi người một phách... Với trọng trách được giao, ông đã hết sức khuyên giải mọi người, bắt tay vào giải quyết mâu thuẫn, ổn dịnh tình hình, đưa mọi việc vào phép tắc. Từ đó, mâu thuẫn được giải quyết, phong tục dần ổn định, thế sự cải đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Mọi việc yên ổn, Ông bèn lập bia ghi lại những việc đã làm để truyền cho đời sau, nhắc nhở con cháu biết đoàn kết, gìn giữ phát huy truyền thống dòng họ để chung tay bảo vệ biên cương Tổ quốc.

     Sau này, khi đình Thủy Môn bị hư hỏng trở thành phế tích, tấm bia này vẫn nằm ở địa điểm cũ của ngôi đình nhưng đã bị đổ, rời khỏi phần đế bia. Năm 1972, một chuyên viên Bộ Ngoại giao ở Hà Nội đi công tác từ Nam Ninh (Trung Quốc) về qua đây có nhìn thấy tấm bia và biết được nội dung của tấm bia, trong đó có hai chữ "Việt Nam".

     Tháng 4 năm 1991, nhà khoa học Nguyễn Phúc Giác Hải đã có bài viết "Tên gọi Việt Nam có từ bao giờ?" đăng trên tạp chí Người đại biểu Nhân dân công bố quá trình nghiên cứu lịch sử tên gọi "Việt Nam". Theo đó, tên gọi "Việt Nam" xuất hiện sớm nhất vào thế kỷ 16 chứ không phải đến thời Nguyễn (năm 1804) mới có. Ông cũng chứng mình bằng thư tịch cổ, các di vật có sự xuất hiện của hai chữ "Việt Nam" từ năm 1804 trở về trước. Lúc này, đồng chí Cán bộ Ngoại giao nọ liền cung cấp cho ông thông tin về tấm bia có hai chữ "Việt Nam" tại Đồng Đăng, tạo tác năm 1670. Ngay sau đó, Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải đã cùng nhà Sử học Nguyễn Minh Tường (Viện Sử học), chuyên gia Hán Nôm Hoàng Giáp (Viện Nghiên cứu Hán - Nôm) lên Đồng Đăng tìm lại tấm bia. Bia được được phát hiện trong một bụi cây tại sườn đồi Phja Mạt - phía bên phải Quốc lộ 1A từ Lạng Sơn lên Đồng Đăng (thuộc khu Vườn Sái, Thị trấn Đồng Đăng, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn), cách đường Quốc lộ 1A cũ khoảng 50m. Vào thời điểm đó, giới sử học đã coi sự kiện này là một phát hiện lịch sử quan trọng. Giáo sư Phan Huy Lê - Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đã đánh giá rất cao việc phát hiện tấm bia này và ghi nhận đây là một di vật "đặc biệt có giá trị" ("Về tên nước và Quốc hiệu Việt Nam". Tạp chí Xưa và Nay số 144, tháng 7/2003).

     Sau khi dập, dịch nội dung tấm bia, nhận thấy tầm quan trọng và ý nghĩa đặc biệt của tấm bia (có chữ "Việt Nam" ở ngay phần đầu của tấm bia) - được sự đồng ý UBND tỉnh Lạng Sơn, tháng 5 năm 1991, Bảo tàng Tổng hợp Lạng Sơn (nay là Bảo tàng Lạng Sơn) đã mang về lưu giữ tại kho của Bảo tàng để gìn giữ, phục vụ nghiên cứu, trưng bày. Tại địa điểm phát hiện bia đã dựng một nhà bia có phiên bản của tấm bia này để phục vụ khách tham quan. Địa điểm di tích này đã được xếp hạng di tích Lịch sử Văn hóa cấp Tỉnh tháng 10 năm 2002 theo quyết định số 41/2002/QĐ-UB của Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn.

     Bia Thủy Môn đình là tấm bia thể khối được làm từ đá núi, tạo tác đẹp và rất công phu - mang đặc trưng điển hình của nghệ thuật tạo hình thời Lê Trung Hưng (thế kỷ 17 - 18). Bia có hình khối hộp chữ nhật dẹt, kích thước lớn (cao 130cm, rộng 84cm, dày 25 cm). Ở mặt trước, chính giữa trán bia (hình bán nguyệt) trang trí chạm nổi hình mặt trời, bao quanh là mây lửa. Thân bia có hình chữ nhật, trên cùng ghi tên bia bằng chữ Hán, viết theo kiểu đại tự - bố trí theo chiều ngang: "Thể tồn bi ký" (Bia gìn giữ bảo tồn truyền thống tộc họ). Ở đầu và cuối của dòng chữ này chạm hình hai con chim phượng trong tư thế nhìn nghiêng đang sải cánh, kích thước giống hệt nhau chầu hai bên.

Hai cạnh bên của thân bia có đôi câu đối được viết theo kiểu cỡ chữ to:

Phiên âm: "An trấn Thủy Môn đình đình tiền thủy lục

Tỏa thược Thiên Nam giới giới hạn thiên thư"

(Dịch nghĩa: Gìn giữ đình Thủy Môn

trước đình đường quanh suối lượn

Khóa chặt ải Nam Quan

quan ải phân định sách trời)

     Ngay dưới đôi câu đối này chạm nổi hình đôi hạc (cao 40cm, giống hệt nhau về hình dáng, kích thước) trong tư thế chân dứng thẳng, đầu ngẩng cao, mỏ ngậm cành sen đứng trên lưng rùa, đối xứng nhau - tượng trưng cho sự trường tồn, bền vững. Phần lớn diện tích mặt trước của bia khắc chìm chữ Hán bài ký với chủ đề "Liên kết để tồn tại". Nguyễn Đình Lộc đã ghi lại những việc đã làm đúng đắn, tốt đẹp của mình để đoàn kết các tầng lớp nhân dân chung tay chung sức bảo vệ vững chắc biên cương Tổ quốc. Sát chân bia có một đường diềm trang trí cúc dây. Bia có chân mộng hình chữ nhật (dài 60 cm, rộng 20 cm, cao 17 cm) liền với thân dùng để lắp khớp vào đế bia.

     Hai mặt bên của tấm bia có các hình trang trí chạm nổi: bên trái là hình hổ phục, bên phải là hình rồng chầu trong một khung bo hình chữ nhật - tượng trưng cho quyền uy và sức mạnh. Các vật linh này đều được tạc ở tư thế động, có đuôi hướng lên trên dáng vẻ uy nghi, dũng mãnh. Xung quanh điểm xuyết hình mây đao lửa làm tăng vẻ linh thiêng của các vật linh.

     Mặt sau của bia tạo tác khá đơn giản, chỉ có chữ mà không có hình trang trí. Chính giữa khắc chìm ba chữ Hán viết theo lối đại tự, bố trí theo chiều dọc: "Thủy Môn Đình" (Đình Thủy Môn). Bên cạnh ghi tên những người đã đóng góp dựng bia.

     Bia Thủy Môn Đình là một trong số những tấm bia thể khối được tạo tác đẹp nhất của Lạng Sơn hiện còn. Điều làm nên giá trị đặc biệt của tấm bia chính là nội dung văn bia chứa đựng tư liệu vô cùng quý giá về tên gọi, chủ quyền lãnh thổ của đất nước ở nơi địa đầu Tổ quốc. Theo các nhà nghiên cứu, hiện nay ở nước ta mới phát hiện được 7 tài liệu, hiện vật, thư tịch cổ có hai chữ "Việt Nam" có ý nghĩa như danh xưng của đất nước từ trước năm 1804.

Trong văn bia có câu: "Việt Nam hầu thiệt. Trấn Bắc ải quan". (Có nghĩa là: Đây là cửa ngõ và yết hầu của nước Việt Nam, là ải quan trấn giữ phương Bắc).

     Hai chữ "Việt Nam" trong tấm bia này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng chứng minh tên nước Việt Nam đã có từ lâu, chứ không phải theo một số tài liệu cho rằng tên nước Việt Nam mới xuất hiện từ thời nhà Nguyễn - khi vua Gia Long (Nguyễn Ánh) lên ngôi năm 1802, thống nhất đất nước mới đổi Quốc hiệu là Việt Nam vào năm 1804. Hơn nữa, hai chữ này lại xuất hiện ở ngay phần đầu của tấm bia được dựng bởi Bắc quân Đô đốc xứ Lạng Sơn nên có ý nghĩa hành chính rõ rệt, thể hiện rõ ý nghĩa Quốc gia và danh xưng của tên gọi "Việt Nam". Đây là lần đầu tiên trong bia biên giới khẳng định rõ ràng vùng đất Lạng Sơn xưa là cửa ngõ, yết hầu, là ải quan trấn giữ phương Bắc của nước Việt Nam. Điều này, các sách chính sử trước đó chưa từng ghi chép. Bia Thủy Môn Đình dựng ở nơi cửa ngõ của đất nước (chỉ cách cửa khẩu Hữu Nghị ngày nay 2 km), là bằng chứng hùng hồn khẳng định chủ quyền lãnh thổ của đất nước ở nơi địa đầu Tổ quốc. Đây là tư liệu quý giúp cho việc nghiên cứu lịch sử, hệ thống quản lý hành chính ở nước ta nói chung và Lạng Sơn nói riêng dưới thời phong kiến; Góp phần quan trọng trong việc nghiên cứu xác định nguồn gốc và tên gọi của Tổ quốc ta trong suốt tiến trình phát triển của lịch sử. Nhiều người đã ví bia Thủy Môn đình như một bản hùng ca của đất nước. Đáp ứng đủ các tiêu chí của một bảo vật Quốc gia theo quy định của luật Di sản Văn hóa: là hiện vật gốc độc bản, có hình thức độc đáo và là hiện vật có giá trị lịch sử đặc biệt, bia Thủy Môn đình đã được Bảo tàng tỉnh Lạng Sơn lập hồ sơ khoa học, trình Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh làm thủ tục đề nghị công nhận bảo vật quốc gia. Ngày 14/1/2015, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định số 53/QĐ-Ttg công nhận bảo vật quốc gia đợt 3 đối với 12 hiện vật và nhóm hiện vật – trong đó có bia Thủy Môn đình. Đây là bảo vật quốc gia đầu tiên của tỉnh Lạng Sơn, một trong 79 bảo vật quốc gia của đất nước. Bia Thủy Môn đình xứng đáng là niềm tự hào lớn của di sản văn hóa xứ Lạng./.

                                                                                                

Một số hình ảnh Bia Thủy Môn Đình

2015-02-10 105036

 

2015-02-10 105259

                                                 2015-02-10 110235                                              

                                                                                                     Bài và ảnh : Chu Quế Ngân

Last modified on Thứ ba, 29 Tháng 9 2015 08:51

Giờ tham quan

+ Sáng 7h30 – 11h30

+ Chiều 13h30 – 17h

Các ngày trong tuần
(tham quan ngày nghỉ lễ, T7, CN vui lòng liên hệ trước)

Thống kê truy cập

Hôm nay 7

Tất cả 2857377

Videos

Liên kết website